Kỹ thuật sử dụng Thương_(vũ_khí)

Một võ sinh đang sử dụng thương

Kỹ thuật sử dụng thương gắn với các khái niệm như thương pháp, thương thuật, thương thế.... trong đó, thương pháp là cách thức sử dụng thương. Thương thuật là kỹ thuật, nghệ thuật dùng thương. Trong khi so sánh về thương có khẩu quyết: "Thương đâm một đường kẽ, côn đánh cả vùng rộng. Thương thọc một đường, gậy đâm một nẻo. Đao như mãnh hổ, thương tựa giao long".[2]

Thương thuật cơ bản là "cầm thương vững trơn, trước quản sau khóa", tức là cầm phía trước thì lỏng để dễ điều khiển, phía sau chặt chẽ, vững vàng. "Hai tay cầm thương chắc mà không chết cứng, trơn mà không tuột". Thương thế hay thế giữ thương chú trọng ở "tứ bình": đỉnh bằng, vai bằng, chân bằng, thương bằng, gốc không rời hông. Đâm thương thì ra thẳng, vào thẳng, phải bằng, ngay, linh hoạt, mau lẹ, kình lực mạnh từ hông đâm thẳng thấu ra tận đầu mũi, thế thương vào ra như giao long ẩn hiện.[2]

Động tác của thương phần lớn lấy công lực, thực dụng làm chính. Pháp dụng thương (thương pháp) thì thương đi như tên bắn, lúc hồi thương (kéo thương về) thì liền mạch như dây kéo. Khẩu quyết là: "Trước thì có xuyên chỉ, xuyên tụ, sau thì có Lê Hoa bãi đầu, có hư thật, có kỳ chính, có hư hư thực thực, kỳ kỳ chính chính. Tiến thì dũng mãnh, lui thì nhanh nhẹn. Thế phải hiểm, bất động thì vững như núi, động thì mau như sấm chớp".[2]

Luyện thương pháp thì theo thứ tự "nhất tiệt, nhị tiến, tam lan, tứ triền, ngũ nã, lục trực". Thương pháp luyện đến chỗ tinh diệu sẽ có được thân pháp mau lẹ uyển chuyển. Vì thân thương dài, biên độ động tác rộng lớn, nên khi tập đại thương yêu cầu thân không rời thương, thương không rời trung tâm, phải có lực ở cánh tay, lực hông, lực chân và thân pháp uyển chuyển, bộ pháp nhanh nhẹn. Khi đâm thương chú ý sao cho thân, bộ đẩy ra trước, giá lên trên khi đến đỉnh đầu là phải rút về, khi đè được khí giới của đối phương là phải hồi thương chuyển thế ngay.[2]

Thương pháp của các môn phái võ, các danh gia tuy nhiều nhưng tựu trung có đâm, thọc, khều, gạt, lăn, giã, lắc, quấn, đỡ, đè, chặn… Các thức trong thương pháp gồm triền thương, lan thương, phá thương, phá lan, trung bình, tử phục sinh, nhất tiến nhất thoái, nhất thượng nhất hạ, thủ pháp, lỗ pháp, thoa pháp, đề pháp, khán pháp, tiếp pháp, thân pháp, tọa pháp, trì pháp, lục phong lục bế.[2]

Trong các loại binh khí thì thương rất khó luyện, người Trung Hoa có câu: "Nguyệt Côn, Niên Đao, Nhất bối tử Thương" (luyện côn tính tháng, luyện đao tính năm, nhưng luyện thương thì cả đời), muốn dùng thương thật giỏi, phải cần mấy năm công phu cơ bản nếu không chỉ là cái vỏ rỗng.

Một số chiêu thức thương lợi hại như: Độc lư thương, Hồi mã thương, Lục hợp đại thương, Liên hoàn thương, Truy mệnh thương, Bá vương thương...